Phóng viên: Thưa đại biểu, qua tổng hợp ý kiến góp ý vào dự thảo Luật Tòa án nhân dân (sửa đổi), cử tri đánh giá như thế nào về sự cần thiết sửa đổi luật?
Đại biểu Trần Thị Vân: Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh: Thực hiện Nghị quyết số 89/2023/QH15 ngày 02/6/2023 của Quốc hội khoá XV về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023; Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức Hội nghị lấy ý kiến đóng góp vào dự thảo Luật Tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi).
Theo đó, đa số các ý kiến đồng tình với sự cần thiết ban hành Luật Tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi), nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.
Đại biểu Trần Thị Vân - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh
Các ý kiến cơ bản nhất trí với Dự thảo Luật quy định: Tòa án sẽ không tham gia vào việc thu thập chứng cứ, Toà án chỉ hỗ trợ các bên thu thập chứng cứ trong vụ án hành chính, vụ việc dân sự với đối tượng là những người yếu thế nhưng phải theo quy định của pháp luật, việc này đã giảm tải được một phần gánh nặng cho Thẩm phán trong khi số lượng án ngày càng tăng, tính chất vụ việc ngày càng phức tạp, đồng thời cũng khắc phục được tình trạng án bị hủy, sửa với lý do: “Chưa thu thập, xác minh đầy đủ chứng cứ…”; Quy định ngạch Thẩm phán Tòa án nhân dân gồm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Thẩm phán; Việc bỏ chức danh Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp, thẩm phán sơ cấp bỏ sự phân biệt thứ hạng cao thấp của Thẩm phán, tạo sự tự tin cho Thẩm phán khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Tòa án.
Phóng viên: Một trong những điểm mới đáng chú ý trong dự thảo luật và nhận được sự quan tâm góp ý đó là sửa đổi một số quy đinh về tổ chức, thẩm quyền, chức năng và nhiệm vụ của Tòa án nhân dân. Đại biểu có thể chia sẻ thêm về các ý kiến đóng góp hoàn thiện dự thảo luật?
Đại biểu Trần Thị Vân: Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh: Qua tiếp xúc cử tri, nhiều ý kiến góp ý về tổ chức và thẩm quyền thành lập các Tòa án nhân dân (Điều 4). Trong đó, về Toà án nhân dân phúc thẩm, Toà án nhân dân sơ thẩm, có ý kiến cho rằng việc đổi tên Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh thành Toà án nhân dân sơ thẩm và Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành Tòa án nhân dân phúc thẩm là sự thể hiện về mặt hình thức nguyên tắc tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử; khắc phục được tình trạng nhận thức Tòa án là một cơ quan hành chính thuộc địa phương, gây khó khăn cho việc xử lý, giải quyết các vấn đề về tổ chức và hoạt động của Tòa án, ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án.
Tuy nhiên, tại Tòa án nhân dân tỉnh cũng xét xử “sơ thẩm” và “phúc thẩm” nên gọi Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là Tòa án nhân dân phúc thẩm là chưa phù hợp và bao quát hết chức năng và nhiệm vụ của Tòa án.
Về Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt, có ý kiến cho rằng đây là quy định hoàn toàn mới để bảo đảm tính chuyên môn hoá, phát huy trình độ chuyên môn sâu cũng như tính độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm trong hoạt động xét xử đối với một số loại vụ việc có tính chất đặc thù như sở hữu trí tuệ, phá sản... Việc thành lập các Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt là phù hợp với xu thế chung của thế giới. Tuy nhiên, những vụ việc mang tính đặc thù không nhiều, không thường xuyên. Do vậy có nhất thiết phải thành lập Tòa án sơ thẩm chuyên biệt không hay thành lập một Tòa chuyên trách trong hệ thống Tòa án? Hơn nữa, khi thành lập Tòa án sơ thẩm chuyên biệt, đồng nghĩa với việc tổ chức bộ máy hoạt động, quy hoạch sử dụng đất và đầu tư xây dựng trụ sở là một vấn đề không hề nhỏ.
Đối với nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án cấp sơ thẩm (Điều 23), tại khoản 2, Điều 23 Dự thảo Luật quy định Tòa án cấp sơ thẩm khi giải quyết, xét xử các vụ việc, không quy định quyền “Khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm” như Luật hiện hành là phù hợp, vì việc ra quyết định khởi tố vụ án thuộc chức năng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Toà án là cơ quan xét xử nên việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự phần nào sẽ ảnh hưởng đến tính vô tư, khách quan trong quá trình xét xử vụ án đó.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng quy định này không phù hợp với quy định tại khoản 4, Điều 153 của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đó là “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm”. Do đó cần có hướng đề xuất sửa đổi thống nhất giữa các văn bản pháp luật liên quan.
Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh tổ chức hội nghị đóng góp ý kiến vào các dự thảo luật trước Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Toà án cấp phúc thẩm (Điều 24 và Điều 54), tại điểm a, khoản 2, Điều 24 dự thảo Luật quy định: “Tòa án cấp phúc thẩm khi giải quyết, xét xử các vụ việc có nhiệm vụ, quyền hạn sau: a) Xem xét, thụ lý vụ việc theo thủ tục phúc thẩm”… Tuy nhiên, tại khoản 1, Điều 55 dự thảo Luật lại quy định Tòa án nhân dân phúc thẩm có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: “Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật”. Có ý kiến cho rằng, việc quy định giữa hai điều luật trên trong dự thảo còn thiếu thống nhất. Đề nghị thống nhất nhiệm vụ quyền hạn của Toà án cấp phúc thẩm trong Luật, để tránh tình trạng khó khăn, vướng mắc khi triển khai, thực hiện.
Phóng viên: Ngoài vấn đề đại biểu nêu, các ý kiến góp ý hoàn thiện dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) còn đề cập đến những nội dung gì, thưa đại biểu?
Đại biểu Trần Thị Vân: Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh: Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh cũng ghi nhận các ý kiến đóng góp hoàn thiện dự thảo luật liên quan đến tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật trong xét xử; Tiêu chuẩn Hội thẩm; Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự; Phương thức xét xử tại Toà án…
Theo đó, có ý kiến cho rằng dự thảo Luật nên quy định Tòa án có thẩm quyền Quyết định hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội mà không cần kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét và chờ thông báo cho Tòa án kết quả xử lý. Quy định như dự thảo sẽ kéo dài thời gian giải quyết vụ việc và bảo vệ không hiệu quả quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức khi bị chính văn bản quy phạm pháp luật này xâm phạm.
Về tiêu chuẩn Hội thẩm (Điều 122), có ý kiến cho rằng quy định các điều kiện tiêu chuẩn người được bầu, cử làm hội thẩm nhân dân (khoản 1, Điều 122) còn chung chung và chưa cụ thể như: “c) Có kiến thức pháp luật; d) Có hiểu biết xã hội”. Đề nghị đưa ra những quy định cụ thể và điều kiện tiêu chuẩn, sự ràng buộc trách nhiệm của Hội thẩm trong quá trình xét xử để phát huy được vai trò, nâng cao chất lượng Hội thẩm. Có ý kiến đề nghị có chế độ đãi ngộ phù hợp với người được bầu, cử làm Hội thẩm.
Đối với quy định về cung cấp chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự (Điều 15), tại khoản 4, Điều 15 dự thảo Luật quy định: “Tòa án hỗ trợ đương sự là người yếu thế trong xã hội thu thập chứng cứ trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo quy định của pháp luật ”. Có ý kiến cho rằng nên quy định rõ đối tượng người yếu thế gồm những ai và trách nhiệm cụ thể của Tòa án trong việc hướng dẫn và hỗ trợ trong việc thu thập chứng cứ để bảo vệ đối tượng yếu thế.
Góp ý về phương thức xét xử tại Toà án (Điều 136), có ý kiến cho rằng việc đưa phương thức xét xử trực tuyến tại toà vào dự thảo luật là phù hợp và cần thiết (nội dung này đã được quy định tại Nghị quyết số 33/2021/QH15 về tổ chức phiên toà trực tuyến ngày 12/11/2021 của Quốc hội). Tuy nhiên để đảm bảo sự tôn nghiêm và mang tính răng đe, đề nghị xem xét điều kiện để xét xử theo hình thức trực tuyến, ví dụ như thiên tai, dịch bệnh…..
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn đại biểu!