ĐBQH Cầm Thị Mẫn – Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa
Qua thảo luận, các đại biểu Quốc hội cơ bản nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự với các lý do như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ; cho rằng nội dung của dự thảo Luật cơ bản phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
Tham gia thảo luận dự án Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự tại Kỳ họp thứ 5, đại biểu Cầm Thị Mẫn nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật với những cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn theo Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng, an ninh.
Về nội dung “giải thích từ ngữ” tại Điều 2, đại biểu Cầm Thị Mẫn cho rằng, Điều 2 có 17 khoản, giải thích các khái niệm liên quan đến công trình quốc phòng, khu quân sự. Tuy nhiên, đại biểu Cầm Thị Mẫn thấy trong số các công trình quốc phòng loại A tại điểm a, khoản 3, Điều 5 có quy định: “các thành cổ, pháo đài cổ, hầm, hào, lô cốt do chế độ cũ xây dựng”. Theo đại biểu Cầm Thị Mẫn các cụm từ “các thành cổ, pháo đài cổ, chế độ cũ” được hiểu như thế nào cũng cần phải được phân tích làm rõ tại phần giải thích từ ngữ để khi Luật được ban hành dễ áp dụng trong thực tiễn.
Liên quan đến quy định tại Điều 5 về “Phân loại, phân nhóm công trình quốc phòng và khu quân sự”, đại biểu Cầm Thị Mẫn cho rằng, việc phân loại, phân nhóm công trình quốc phòng và khu quân sự thành quá nhiều nhóm (đến 8 nhóm), vừa phân loại theo chiều dọc, vừa phân loại theo chiều ngang như trong Điều 5 sẽ khó khăn cho việc áp dụng pháp luật. Do vậy, đề nghị nghiên cứu phân loại công trình quốc phòng và khu quân sự theo căn cứ “yêu cầu quản lý, bảo vệ để quy định các biện pháp quản lý, bảo vệ” phù hợp.
Các đại biểu Quốc hội tại phiên họp
Bên cạnh đó, đại biểu tỉnh Thanh Hóa đề nghị nghiên cứu chỉ nên giao cho Bộ Quốc phòng mà không cần giao cho Chính phủ ban hành danh mục loại, nhóm công trình quốc phòng, khu quân sự vì Bộ Quốc phòng là cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề này. Việc giao cho Bộ Quốc phòng ban hành danh mục loại, nhóm công trình quốc phòng, khu quân sự còn bảo đảm tính nhanh chóng, linh hoạt và giảm bớt thủ tục hành chính đáp ứng kịp thời yêu cầu tác chiến của quân đội.
Về quy định tại Điều 6 “Những hành vi bị nghiêm cấm”, đại biểu Cầm Thị Mẫn cho rằng, về tổng thể, khoản 1,2,3 của Điều luật này mới tập trung vào việc quy định những hành vi bị nghiêm cấm đối với đối tượng là công trình quốc phòng và khu quân sự mà chưa đề cập tới những hành vi bị nghiêm cấm đối với đối tượng là khu vực bảo vệ, vành đai an toàn của công trình quốc phòng hoặc khu quân sự và hành lang an toàn kỹ thuật của hệ thống anten quân sự. Mặc dù tại Điều 17 quy định tương đối chi tiết chế độ bảo vệ đối với khu vực bảo vệ, vành đai an toàn của công trình quốc phòng hoặc khu quân sự và hành lang an toàn kỹ thuật của hệ thống anten quân sự.
Do vậy, cần nghiên cứu bổ sung những hành vi cấm đối với khu vực bảo vệ, vành đai an toàn của công trình quốc phòng hoặc khu quân sự và hành lang an toàn kỹ thuật của hệ thống anten quân sự để đảm bảo đồng bộ, tương thích giữa các Điều của luật này.
Đại biểu cho biết, tại khoản 1 quy định cấm hành vi “…phá hoại, làm hư hỏng kiến trúc, kết cấu, trang thiết bị của công trình quốc phòng và khu quân sự” nhưng tại khoản 3 lại quy định cấm hành vi “…phá dỡ… công trình quốc phòng và khu quân sự trái quy định của pháp luật”. Đại biểu Cầm Thị Mẫn cho rằng, bản chất của việc phá dỡ trái pháp luật là phá hoại, làm hư hỏng. Do vậy, đề nghị biên tập lại nội dung khoản 1, 2 và 3 theo hướng quy định hai nhóm hành vi bị nghiêm cấm: Một là, những hành vi có tính chất tác động vật lý như chiếm đoạt, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng công trình quốc phòng, khu quân sự. Hai là, những hành vi cấm liên quan đến việc bảo vệ bí mật đối với công trình quốc phòng, khu quân sự.
Về quy định tại Điều 11 “Chuyển đổi mục đích sử dụng công trình quốc phòng và khu quân sự”: Tại điểm b và c khoản 2 quy định những trường hợp chuyển mục đích sử dụng công trình quốc phòng và khu quân sự gắn liền với việc chuyển mục đích sử dụng đất quốc phòng sang loại đất khác. Nghĩa là phải thực hiện việc thu hồi đất quốc phòng để giao cho người khác như chủ đầu tư, doanh nghiệp…thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu quy định nội dung này đảm bảo đồng bộ với các quy định về “Đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh”, “Chuyển mục đích sử dụng đất”, “Giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng cho người khác” của Luật Đất đai và dự thảo dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) cũng đang thảo luận tại kỳ họp này.
Nữ đại biểu cũng cho rằng, trong số những công trình quốc phòng, có một số công trình quốc phòng sử dụng chung, vừa cho mục đích quốc phòng vừa cho mục đích phát triển kinh tế - xã hội như sân bay, bến cảng. Tuy nhiên, trong dự thảo Luật chưa đề cập tới việc quản lý, khai thác sử dụng kết hợp. Năm 2020, Quốc hội khóa XIV đã có Nghị quyết số 132 cho phép thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý sử dụng đất quốc phòng an ninh kết hợp với hoạt động lao động, sản xuất, xây dựng kinh tế. Đến nay, chúng ta cũng đã thực hiện Nghị quyết 132 được trên 2 năm. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo cần sớm có sơ kết, đánh giá về kết quả thực hiện. Từ đó sớm đề nghị các chính sách quản lý, khai thác các công trình quốc phòng kết hợp mục đích kinh tế ngay trong dự thảo Luật để trình Quốc hội xem xét thảo luận cùng với dự thảo Luật Đất đai. Ngoài ra đề nghị cần làm rõ hơn về chế độ chính sách với các đối tượng tham gia bảo vệ công trình quốc phòng, nhất là tại các khu vực an toàn khu.