ĐẠI BIỂU ĐOÀN THỊ LÊ AN - ĐOÀN ĐBQH TỈNH CAO BẰNG GÓP Ý HOÀN THIỆN DỰ THẢO LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG (SỬA ĐỔI)

17/01/2024

Đóng góp vào dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), đại biểu Đoàn Thị Lê An - Đoàn ĐBQH tỉnh Cao Bằng cho rằng, bên cạnh việc siết tỷ lệ sở hữu với hiệu quả còn khá mơ hồ, cần xem xét quy định thật chặt chẽ về điều kiện, thủ tục cấp tín dụng cho khách hàng liên quan...

Theo dòng sự kiện

Thực hiện Kỳ họp bất thường lần thứ 5, chiều 15/01, Quốc hội thảo luận ở Hội trường về dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Đóng góp ý kiến vào dự thảo Luật, đại biểu Đoàn Thị Lê An - Đoàn ĐBQH tỉnh Cao Bằng khẳng định: Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) là một dự luật khó và có nhiều nội dung phức tạp, chuyên ngành sâu, có tác động ảnh hưởng dẫn đến rất nhiều đối tượng cũng như đối với nền kinh tế vĩ mô. Vì vậy, quá trình tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo luật này rất công phu, mất nhiều thời gian mà Quốc hội cũng đã phải điều chỉnh sang kỳ họp này. Trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ dự án Luật tổ chức tín dụng sửa đổi bản mới nhất, đại biểu Đoàn Thị Lê An tham gia góp ý vào những vấn đề cụ thể như:

Thứ nhất, về nhiệm vụ, quyền hạn của Ban kiểm soát (Điều 52). Tại Khoản 5 đề nghị không quy định nhiệm vụ giám sát việc thông qua giám sát việc thực hiện của Ban kiểm soát. Vì Ban kiểm soát không nằm trong quy trình thực hiện các dự án đầu tư, mua bán tài sản cố định, hợp đồng, giao dịch khác nên khó giám sát việc thông qua các giao dịch. Ban kiểm soát không đủ dữ liệu kịp thời và nguồn lực để giám sát cả quá trình thực hiện dự án, giao dịch đó.

Quốc hội thảo luận ở Hội trường về dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi).

Trường hợp Luật Các tổ chức tín dụng mới có quy định nhiệm vụ của Ban kiểm soát như Khoản 5, Điều 52 dự thảo Luật thì đề nghị làm rõ Ban kiểm soát thực hiện giám sát việc thông qua và thực hiện dự án đầu tư mua, bán tài sản cố định thuộc thẩm quyền quyết định của đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hay toàn bộ các dự án đầu tư mua bán tài sản cố định; lập và gửi báo cáo đánh giá, kiến nghị về nội dung này cho chủ sở hữu, Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên được thực hiện vào thời điểm nào trước khi thông qua hay sau khi thông qua; Tần suất và thời gian theo báo cáo, các báo cáo đánh giá, kiến nghị phải được gửi Hội đồng đồng thời cho chủ sở hữu, đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hay có nguyên tắc gửi khác.

Thứ hai, về tỷ lệ sở hữu cổ phần tại Điều 63, dự thảo Luật điều chỉnh tỷ lệ sở hữu cổ phần của tổ chức tín dụng theo hướng giảm so với quy định pháp luật hiện hành. Cụ thể là tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông là tổ chức, cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó không vượt quá 15% và 20%, giảm xuống còn 10% và 15%. Mục đích của việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần này nhằm hướng tới việc loại bỏ tình trạng sở hữu chéo, sử dụng tỷ lệ sở hữu cổ phần để thao túng, chi phối hoạt động của các tổ chức tín dụng từ một số cổ đông, nhóm cổ đông lớn.

Đại biểu Đoàn Thị Lê An cho rằng, vấn đề điều chỉnh tỷ lệ sở hữu này không có nhiều ý nghĩa để hạn chế sở hữu chéo. Điều này chỉ kiểm soát được về mặt hồ sơ. Việc khống chế tỷ lệ không quan trọng bằng việc giám sát thực thi quy định, chưa nói đến việc có thể tạo ra rào cản ngăn cản dòng vốn ngoại chảy vào hệ thống ngân hàng nội khi những người chủ ngân hàng nắm giữ 15 – 20% vốn ngân hàng không thể lũng đoạn các hoạt động cho vay của chính tổ chức đó. Trên thực tế, những trường hợp sai phạm vừa qua cho thấy, tỷ lệ sở hữu thực sự của những chủ thể này cao hơn rất nhiều so với quy định thông qua các công ty con, công ty liên kết hoặc các cá nhân đứng tên đó.

Đại biểu Đoàn Thị Lê An - Đoàn ĐBQH tỉnh Cao Bằng.

Việc sửa đổi pháp luật để phù hợp thực tiễn rất cần thiết. Tuy nhiên, khống chế tỷ lệ sở hữu tại ngân hàng không đủ ngăn tái diễn vụ việc tương tự như Ngân hàng SCB bởi sở hữu chéo hay thao túng ngân hàng bản chất rất phức tạp. Nếu nhìn trên giấy tờ, nhiều cổ đông sở hữu thấp hơn tỷ lệ cho phép nhưng vẫn nắm quyền chi phối. Do đó, bên cạnh việc siết tỷ lệ sở hữu với hiệu quả còn khá mơ hồ, cần xem xét quy định thật chặt chẽ về điều kiện, thủ tục cấp tín dụng cho khách hàng liên quan. Cổ đông có hệ thống giám sát chéo, thiết lập một khung pháp lý cụ thể trong lĩnh vực tài chính để làm rõ cơ cấu sở hữu, chủ sở hữu thực và trách nhiệm giải trình, xử lý nghiêm minh với những trường hợp cố ý làm trái.

Thứ ba, về xét duyệt các tín dụng, kiểm tra sử dụng vốn vay, tài sản cho thuê tài chính tại Điều 102, việc tài trợ cho một mục đích sử dụng tiền vay không hợp pháp, không hợp lý sẽ đặt ra vấn đề trách nhiệm pháp lý không mong muốn đối với các tổ chức tín dụng khi khách hàng không trả được nợ, khoản tín dụng gặp rủi ro, nhưng việc kiểm tra sử dụng tiền vay của khách hàng liệu có ảnh hưởng? Có đặt ra vấn đề trách nhiệm của ngân hàng trong các trường hợp tương tự. Với quy định này, nếu có sai sót bất kỳ ví như không nhận thức và thực hiện đúng nhiệm vụ kiểm tra sử dụng tiền vay của khách hàng sau giải ngân thì vấn đề trách nhiệm của ngân hàng, cán bộ tín dụng sẽ được đặt ra khi chẳng may bị xác định đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới khách vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích, gây mất vốn và không trả được nợ ngân hàng. Vấn đề này nếu được cụ thể hóa cần phải được sửa đổi tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 mới bảo đảm giá trị thi hành, mới thực sự bỏ được cho phía ngân hàng một nghiệp vụ không dễ tiến hành trong thực tế. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo quy định nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng chỉ áp dụng đối với các trường hợp tại Khoản 1.

Còn các trường hợp tại Khoản 2 thì quy định ngân hàng có quyền nhưng không có nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay. Theo dự thảo Luật tổ chức tín dụng (sửa đổi) sẽ có nghĩa vụ kiểm tra mục đích sử dụng vốn với tất cả các khoản tín dụng. Tuy nhiên, đối với một số phương thức cho vay như hạn mức thấu chi, thẻ tín dụng thì việc kiểm tra mục đích sử dụng vốn toàn bộ là không khả thi.

Thứ tư, về quyền, nghĩa vụ của công ty kiểm soát (Điều 141). Tại Khoản 2 dự thảo luật quy định phải thiết lập và thực hiện độc lập, bình đẳng các hợp đồng, giao dịch khác và quan hệ khác giữa công ty kiểm soát với công ty con, công ty liên kết theo điều kiện áp dụng đối với chủ thể pháp lý độc lập.

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 116 Bộ luật dân sự năm 2015 thì giao dịch dân sự đã bao gồm hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc chỉnh sửa, bổ sung để thống nhất nội dung dự thảo luật. Đồng thời đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ khái niệm quan hệ khác tại điều này để đảm bảo tính khả thi, minh bạch.

(Theo Báo Đại biểu nhân dân)

Các bài viết khác